hướng dẫn học sinh tự học môn lịch sử

Khi thực hiện, bạn hãy cố gắng tối giản số chữ và chỉ ghi nhận ý chính để dễ học hơn. Tìm được cách học giỏi Lịch sử không khó, quan trọng là bạn phải thực sự quyết tâm và cố gắng. Có rất nhiều phương pháp hỗ trợ học tập cho bạn nên đừng lo lắng, hãy chăm chỉ và kiên nhẫn để có được kỳ thi tốt nhất. Học sinh cấp 3 bắt buộc học 52 tiết môn lịch sử từ năm học 2022-2023 ở chương trình giáo dục phổ thông mới lớp 12) để dạy bắt buộc cho tất cả học sinh. (3) Tổ chức Hội thảo xin ý kiến, tổ chức, các nhà khoa học, giáo viên về Chương trình Lịch sử cấp THPT cụ tin học. 5. Chương trình môn Lịch sử và Địa lí cấp tiểu học được thiết kế theo hướng mở, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và của các địa phương; phù hợp với khả năng của giáo viên, học sinh và thực tiễn dạy học ở nhà trường hƯỚng dẪn hỌc sinh tỰ hỌc trong thỜi gian sỞ gd cho nghỈ hỌc phÒng chỐng covid_19 . hƯỚng dẪn ĐiỀu chỈnh nỘi dung dẠy hỌc cẤp trung hỌc phỔ thÔng hỌc kÌ ii, nĂm hỌc 2019-2020 ; ĐỀ minh hỌa kÌ thi thptqg 2020 ; cỔng hỌc liỆu & thi trỰc tuyẾn thpt ĐỘi cẤn ; liên hệ HƯỚNG DẪN TỰ HỌC MÔN LỊCH SỬ. Trang tin Học sinh. Kỹ năng sống; Tra cứu. Bảng điểm; Thời khoá biểu; HƯỚNG DẪN HỌC TRỰC TUYẾN; CÔNG KHAI. SỐ LƯỢNG. NĂM HỌC 2019-2020; NĂM HỌC 2020 - 2021; nĂM HỌC 2021-2022; CHẤT LƯỢNG. Recherche Site De Rencontre Gratuit En Ligne. Cô Lê Thị Thu Hương – Giáo viên môn Lịch sử tại HOCMAI sẽ hướng dẫn học sinh phương hướng học và ôn thi đối với môn Lịch sử khối THCS dựa theo chương trình giảm tải do Bộ GD&ĐT đã công bố. >>> Xem thêm Nội dung chương trình giảm tải chương trình học kỳ II các môn học Theo cô Lê Thị Thu Hương việc điều chỉnh khung chương trình học kỳ II năm học 2019 – 2020 là rất cần thiết trong bối cảnh dịch bệnh khi học sinh vẫn phải nghỉ học dài ngày để tránh dịch. Về nội dung điều chỉnh môn Lịch sử các lớp 6,7,8,9 của khối THCS phù hợp, các bài học ở học kì II đã được hướng dẫn thực hiện giản lược nhưng vẫn đảm bảo kiến thức phổ thông nhất. Một số bài học được gộp lại thành chủ đề đảm bảo kiến thức lịch sử vẫn có sự liên kết, thuận lợi cho người học. Về cơ bản nội dung chương trình Lịch sử cấp THCS đã giản lược nhiều, so với nội dung học trên lớp bình thường như các năm, học kì II năm học 2019 -2020, với hướng dẫn của Bộ GD&ĐT đã giảm khoảng 40-50% khối lượng kiến thức. CÁC NỘI DUNG TRỌNG TÂM CẦN LƯU Ý ĐỐI VỚI TỪNG LỚP Nội dung môn Lịch sử khối lớp 6 Hướng dẫn của Bộ Giáo dục & Đào tạo đã hướng dẫn chủ yếu dạy và học thành 2 chủ đề, 1 bài đã giản lược kiến thức, 1 bài ôn tập học sinh tự học. Chủ đề thứ nhất Từ bài 17 đến bài 23, nội dung các bài này đã tích hợp thành chủ đề Các cuộc đấu tranh giành độc lập thời kì Bắc thuộc từ năm 40 đến thế kỉ IX. Nội dung chủ yếu cần giải quyết 2 vấn đề lớn 1 Chính sách cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc và cuộc sống của nhân dân Giao Châu. Phần này tập trung vào 2 nội dung – Về chính trị trực tiếp cai trị, chia quận huyện. – Về văn hóa thực hiện đồng hóa về văn hóa. 2 Các cuộc đấu tranh giành độc lập tiêu biểu từ năm 40 đến thế kỉ IX Phần này nội dung tập trung vào Cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng năm 40 và Khởi nghĩa Lý Bí. Nước Vạn Xuân. Giáo viên nên tổ chức dạy học với việc hướng dẫn học sinh lập bảng thống kê tên cuộc khởi nghĩa, thời gian, địa điểm, người lãnh đạo, kết quả và ý nghĩa. Chủ đề thứ hai Tích hợp hai bài 26 và 27 thành chủ đề Bước ngoặt lịch sử ở đầu thế kỉ X . Tập trung dạy và học vào 2 nội dung sau – Họ Khúc dựng quyền tự chủ. – Chiến thắng Bạch Đằng năm 938. Một bài giản lược kiến thức Bài 24. Nước Cham – pa từ thế kỉ II đến thế kỷ X. Mục 2. Tình hình kinh tế, văn hóa Cham – pa từ thế kỉ II đến thế kỷ X Tập trung chủ yếu vào lĩnh vực văn hóa. – Bài 28 Ôn tập. Đây là bài giáo viên khuyến khích học sinh tự học để ôn lại kiến thức của dân tộc từ cội nguồn đến thế kỉ X. Nội dung môn Lịch sử khối lớp 7 Nội dung kiến thức của lớp 7 học kì II cung cấp cho người học kiến thức lịch sử dân tộc suốt từ thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XIX trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, và văn hóa- xã hội. Trọng tâm kiến thức sau khi giảm tải tập trung vào các nội dung Về các cuộc khởi nghĩa – Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn 1418 -1427 Tập trung làm rõ vai trò của Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa; Các sự kiện chính của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thông qua việc hướng dẫn học sinh lập bảng thống kê; Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn. – Phong trào nông dân Tây Sơn tập trung làm rõ nguyên nhân bùng nổ cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn; Các sự kiện chính của các mục II, III, IV từ đến SGK LS lớp 7 hướng dẫn học sinh lập niên biểu. Về tình hình chính trị Tập trung giới thiệu về sự thành lập nhà Nguyễn. Về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục và khoa học – kĩ thuật – Kinh tế khái quát các nét chính về kinh tế từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. – Văn hóa Hướng dẫn học sinh lập bảng thống kê những thành tựu văn hóa tiêu biểu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. – Giáo dục và khoa học – kĩ thuật hướng dẫn học sinh lập bảng thống kê các thành tựu tiêu biểu từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX Cô Lê Thị Thu Hương đánh giá khối lượng kiến thức môn Lịch sử THCS giảm tải khoảng 40 – 50% Nội dung môn Lịch sử khối lớp 8 Kiến thức của chương trình lớp 8 học kì II tập trung vào nội dung kiến thức lịch sử Việt Nam từ năm 1858 đến những năm đầu thế kỷ XX. Sau khi giảm tải cần tập trung vào các nội dung trọng tâm vào các chủ đề sau 1. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1858 đến 1884 – Tập trung vào các sự chính qua các mốc thời gian. Nêu được thái độ của nhân dân và thái độ của triều đình đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp qua các sự kiện tiêu biểu. 2. Phong trào kháng chiến chống Pháp trong những năm cuối thế kỷ XIX – Tập trung làm rõ phong trào Cần Vương với cuộc khởi nghĩa Hương Khê là tiêu biểu. – Khởi nghĩa Yên Thế 1884 -1913 Hướng dẫn học sinh lập niên biểu các sự kiện tiêu biểu, cần giải thích thật ngắn gọn tính chất của phong trào này với các cuộc khởi nghĩa nằm trong phong trào Cần Vương. Xã hội Việt Nam từ năm 1897 đến năm 1918 – Mục đích của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp tại Việt Nam và nêu ngắn gọn các chính sách khai thác. – Phong trào yêu nước trước Chiến tranh thế giới thứ nhất tập trung vào hai xu hướng cứu nước chính bạo động và cải cách gắn với hai nhà yêu nước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Nội dung môn Lịch sử khối lớp 9 Nội dung kiến thức lịch sử lớp 9 học kì II liên quan đến kiến thức lịch sử từ những năm 20 của thế kỷ XX đến năm 2000. Sau khi giảm tải, kiến thức trọng tâm cần làm rõ các vấn đề sau Cách mạng Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản ra đời tập trung hướng dẫn học sinh lập bảng thống kê những sự kiện tiêu biểu về hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1923 đến năm 1925. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tập trung vào hoàn cảnh lích sử, nội dung Cương lĩnh Chính trị đầu tiên, ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng. Phong trào cách mạng trong những năm 1930 -1935 Tập trung vào các sự kiện tiêu biểu trong phong trào cách mạng 1930 -1931 thời gian, địa điểm, ý nghĩa. Cách mạng Việt Nam từ năm 1936 đến năm 1945 Tập trung đến các nội dung từ năm 1941-1945 Mặt trận Việt Minh ra đời, vai trò, ý nghĩa; Các sự kiện chính trong diễn biến của Cách mạng tháng Tám diễn ra trên phạm vi cả nước; ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thành công của Cách mạng tháng Tám. 5. Cách mạng Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm trước ngày Toàn quốc kháng chiến tích hợp thành mục “Củng cố chính quyền cách mạng và bảo vệ độc lập dân tộc”. Tập trung làm rõ nội dung Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám; nêu sự kiện bầu Quốc hội đầu tiên trong cả nước 6/1/1946; Sự kiện Pháp quay lại xâm lược nước ta lần thứ 2 23/9/1946 và chính sách hòa hoãn của Chính phủ ta với quân Trung Hoa Dân quốc để tập trung chống Pháp ở Nam Bộ. Cách mạng Việt Nam từ năm 1946 đến năm 1954 – Nêu nguyên nhân bùng nổ cuộc kháng chiến toàn quốc và nội dung đường lói kháng chiến chống Pháp xâm lược. – Các cuộc chiến đấu và các chiến dịch từ năm 1946 đến năm 1954. + Chiến đấu trong đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 Chỉ nêu ý nghĩa. + Chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947 và Chiến dịch Biên Giới thu – đông 1950 nhấn mạnh đến kết quả, ý nghĩa của mỗi chiến dịch. + Sự kiện chính của chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. – Về chính trị, ngoại giao + Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng 2/1951 nêu nội dung cơ bản và ý nghĩa. + Hiệp định Giơ-ne-vơ tập trung vào nội dung và ý nghĩa của bản Hiệp định. – Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp 1945 -1954. Cách mạng Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 – Nêu khái quát ngắn gọn tình hình cách mạng miền Bắc và cách mạng miền Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ. – Cách mạng miền Nam 1954 -1975. + Phong trào Đồng khởi Kết quả, ý nghĩa. + Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam nhấn mạnh âm mưu, thủ đoạn của Mĩ; thống kê các sự kiện tiêu biểu của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống “Chiến tranh đặc biệt”. + Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ ở miền Nam nhấn mạnh âm mưu, thủ đoạn của Mĩ; thống kê các sự kiện tiêu biểu của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống “Chiến tranh cục bộ”. + Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” 1969 -1973 của Mĩ nhấn mạnh âm mưu, thủ đoạn của Mĩ; thống kê các sự kiện tiêu biểu của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh” 1969 -1973. + Hoàn thành giải phóng miền Nam thống nhất đất nước – Khái quát chủ trương giải phóng miền Nam và lập bảng thống kê các sự kiện tiêu biểu trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. – Hiệp định Pari năm 1973 về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam Chỉ nêu nội dung và ý nghĩa của Hiệp định. Cách mạng Việt Nam từ năm 1975 đến năm 2000. – Chủ trương và biện pháp thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. – Nội dung đường lối đổi mới của Đảng năm 1986 và khái quát những thành tựu tiêu biểu trong kế hoạch 5 năm 1986 -1990. Xem thêm >>> Phân tích nội dung giảm tải môn Toán khối THCS học kỳ II năm học 2019-2020 >>> Phân tích nội dung giảm tải môn Ngữ văn khối THCS học kỳ II năm học 2019-2020 >>> Lưu ý quan trọng để học tốt môn Hóa học lớp 8, 9 theo chương trình giảm tải của Bộ Giáo dục và Đào tạo Tư vấn lộ trình học, các lưu ý cho học sinh trong thời gian học kì II Nhằm giúp học sinh có phương hướng và kế hoạch học tập cụ thể đối với môn Lịch sử dựa theo chương trình giảm tải của Bộ GD&DDT, cô Lê Thị Thu Hương đã đưa ra những tư vấn và lưu ý dành cho học sinh – Đây là giai đoạn củng cố và nâng cao việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học các bộ môn nói chung và bộ môn Lịch sử nói riêng. – Học sinh nên chuẩn bị tâm thể thoải mái khi học, nêu cao tính tự học, tự nghiên cứu, tự đọc, tự xem tài liệu tham khảo. – Đọc SGK theo các bài, nhấn mạnh các nội dung trọng tâm. – Xem phim tài liệu trên các kênh chính thống các nội dung có liên quan đến nội dung lịch sử. – Làm các bài tập do giáo viên giao. – Xem các bài dạy trên ti vi, trên trang của – Làm các câu hỏi trắc nghiệm trên các tài liệu khác để củng cố kiến thức. Như vậy, trong thời gian tạm nghỉ học như hiện nay, học sinh hãy tận dụng khoảng thời gian này để làm cơ hội tự học tại nhà, đảm bảo mạch kiến thức bằng việc học qua truyền hình hoặc học trực tuyến. Theo đó phụ huynh và học sinh có thể tham khảo Chương trình Học tốt học kỳ II của HOCMAI, gồm các môn học dành cho học sinh từ lớp 6 – 9. Chương trình giúp học sinh nắm chắc kiến thức nền tảng, thành thạo các kỹ năng làm bài thông qua việc luyện tập các dạng bài, chuyên đề thường gặp trong các bài kiểm tra, bài thi, giúp bứt phá điểm số cuối năm. Mọi thông tin thắc mắc về chương trình vui lòng liên hệ hotline 0936585812 để được giải đáp miễn phí! 1. Liên kết sự kiện lịch sử với bản thân Lịch sử là môn học có nội dung khá nhiều các số liệu nên dễ khiến nhiều học sinh cảm thấy nản mỗi khi học. Vì vậy, để nhớ các mốc sự kiện, số liệu, các bạn nên hướng dẫn học sinh gắn những con số này với những điều quen thuộc trong cuộc sống như ngày của mình như sinh nhật của người thân, bạn bè, ngày đầu tiên nhập hoc.... Bên cạnh đó, giáo viên cũng khuyên học sinh nên chép lại các sự kiện, mốc thời gian sự kiện vào giấy ghi chú sau đó dán nó lên góc học tập, tường nhà, cửa ra vào, góc nấu ăn miễn là những vị trí dễ thấy, thấy thường xuyên nhất. Việc này giúp cho học sinh dễ nhớ hơn đọc trong sách giáo khoa. 2. Xâu chuỗi các sự kiện Với nhiều sự kiện bạn nên tìm cách xâu chuỗi với nhau, như vậy chỉ cần nhớ 1, học sinh sẽ nhớ sự kiện kia. Chỉ cần các bạn tìm ra cách thức liên kết 2 sự kiện ấy. Ví như ngày 27 tháng 1 1973 là ngày kí Hiệp định Pari, đảo lại, ngày 21 tháng 7 1954 là ngày kí Hiệp định Giơnevơ; Ngày 2 tháng 9 1945 Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, đảo lại ngày 9 tháng 2 1930 là ngày nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái… 3. Tự xây dưng sơ đồ tư duy Sơ đồ tư duy môn Lịch Sử Đây được cho là phương pháp hiệu quả nhất, tiết kiệm thời gian và nhớ lâu nhất. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh vẽ ra cho mình nhứng sơ đồ tư duy Lịch sử riêng. Để vẽ được sơ đồ tư duy hình cây cũng không khó khăn và thách thức học sinh. Gốc cây chính là ý chính của bài học, các ý nhỏ triển khi như những cành cây lớn, ý nhỏ nữa sẽ vẽ đâm ra như những nhánh cây. Theo lối tư duy tượng hình này giúp nhớ dễ dàng hơn, hình ảnh sẽ luôn được mường tượng ra trong đầu. 4. Xem phim tài liệu Phìm tài liệu về chiến tranh Việt Nam Khuyến khích các em xem phim tài liệu cũng là một cách dễ nắm bắt chính xác nhất các sự kiện lịch sử. Những chi tiết, hình ảnh sống động trên phim sẽ giúp người xem tiếp thu kiến thức lịch sử một cách nhẹ nhàng hơn, với ấn tượng mạnh hơn mà không hề cảm thấy khô khan như tiếp thu trên sách vở. 5. Tham gia các kỳ thi trắc nghiệm để hệ thống kiến thức Hãy thường xuyên kiểm tra kiến thức lịch sử của học sinh đến đâu bằng cách cho các em luyện thi thật nhiều với hệ thống trắc nghiệm trực tuyến trên website. Không chỉ bổ sung những kiến thức lịch sử còn hổng, việc luyện thi trên hệ thống trực tuyến còn giúp học sinh làm quen với nhiều dạng câu hỏi, tích lũy kinh nghiệm làm bài, biết cách phân bố thời gian hợp lý trong quá trình thi. Tuy nhiên phương pháp này có phần hạn chế là các đề thi trên website không được kiểm chứng và quy định nên hệ thống kiến thức có thể quá rộng, không phù hợp với trình độ học sinh, dễ khiến học sinh lạc hướng. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên nên tự thiết lập hệ thống trắc nghiệm trực tuyến riêng cho mình. Đảm bảo lượng kiến thức vừa đủ và ngang tầm học sinh của mình. Hãy điền đầy đủ thông tin ở form tại đây, mọi vấn đề liên quan đến thiết kế và kỹ thuật sẽ được chúng tôi giải quyết. Giáo viên chỉ cần chuẩn bị nội dung là có ngay hệ thống trắc nghiệm của riêng mình hoàn toàn miễn phí cho học sinh luyện tập thả ga. Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm rèn luyện kĩ năng Tự học cho học sinh môn Lịch sử 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênMục lục Trang đầu. 2 Lí do chọn đề tài. 2 đích nghiên cứu 2 Đối tượng nghiên cứu. 3 Phương pháp nghiên cứu. 3 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 3 Cơ sở lí luận. 3 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 6 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệmđối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 17 3. Kết luận, kiến nghị. 18 1. MỞ ĐẦU do chọn đề tài Hiện nay, các tiết học Lịch sử nói chung và Lịch sử Việt Nam nói riêng được tiến hành một cách sinh động nhờ có sự quan tâm đầu tư cho soạn giảng, đa dạng hóa hình thức tổ chức hoạt động cho học sinh trên lớp, đặc biệt là những bài giảng điện tử có nhiều kênh hình phong phú. Tuy nhiên, các tiết học này đa số là từ sự chuẩn bị từ các thầy cô mà chưa có sự chuẩn bị của học sinh. Vì vậy đa số học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, điều này không những không phát triển được tư duy của học sinh, mà ngược lại còn đẩy học sinh vào thế ỷ lại, mau quên dẫn đến thờ ơ với lịch sử, kể cả lịch sử dân tộc. Đặc biệt trong thời gian gần đây, các cơ quan truyền thông đang nêu lên một thực trạng mà cả xã hội quan tâm, đó là sự xuống cấp của bộ môn lịch sử trong ngành giáo dục Thái độ thờ ơ của học sinh đối với môn lịch sử và kết quả trong các kì tuyển sinh quá thấp, hàng ngàn bài thi môn lịch sử của học sinh không có điểm điểm 0, những bài thi “cười ra nước mắt”... Thực trạng đó, khiến tôi suy nghĩ nhiều, làm sao để khắc phục tình trạng đó và nâng cao nhận thức, kết quả học tập cho học sinh trong học tập lịch sử. Một thực tế đã mở ra một cơ hội thành công rất lớn cho cả người dạy và người học lịch sử. Đó là phải để cho người học chủ động tiếp thu kiến thức thông qua các nguồn tư liệu khác nhau. Từ đó dẫn đến yêu cầu phát triển kĩ năng tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức của người học là rất lớn. Vì vậy người dạy phải có phương pháp để phát triển kĩ năng tự học trong học tập lịch sử cho HS. Qua kinh nghiệm công tác giảng dạy môn lịch sử và tìm hiểu thực tế, tôi mạnh dạn quyết định viết đề tài “ Kinh nghiệm rèn luyện kĩ năng Tự học cho học sinh môn lịch sử 7”, nhằm tạo cảm hứng học tập cho học sinh, có biện pháp giúp đỡ các em phát triển kĩ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử một cách hiệu quả, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục và vị trí của môn lịch sử trong xã hội. đích nghiên cứu Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng + Quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau. + Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp + Phân tích, so sánh, đánh giá các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. + Báo báo những kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,.. + Có trách nghiệm với bản thân, gia đình và đất nước. Với các kĩ năng trên nhằm tránh lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo phương pháp dạy học tích cực nhằm giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện khả năng và thói quen tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tạo hứng thú trong học tập cho HS. Qua đây HS chủ động tìm tòi, khám phá, phát hiện, rèn luyện và xử lí thông tin, tự hình thành hiểu biết, năng lực, phẩm chất. Học để đáp ứng những yêu cầu cuộc sống hiện tại và tương lai.[3] tượng nghiên cứu Học sinh khối 7 trường THCS Quảng Long. pháp nghiên cứu Trong việc thực hiện nghiên cứu một vấn đề - đề tài, một sự vật hiện tượng chúng ta cần thực hiện nhiều phương pháp, trong đề tài này tôi cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như Tìm hiểu, điều tra thực tế, thống kê, phân tích, đánh giáNhững phương pháp này đã góp phần rất lớn cho tôi hoàn thành đề tài này.[4] 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Cơ sở lí luận Khái niệm a. Khái niệm kỹ năng Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn Từ điển tiếng Việt. Có nhiều định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Các định nghĩa thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm của mỗi cá nhân . Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành khi chúng ta áp dụng tri thức khoa học vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng. Vậy, Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết kiến thức hoặc kinh nghiệm nhằm tạo ra kết quả mong đợi.[3] b.. Khái niệm tự học Người ta cũng có nhiều quan niệm về tự học, có người cho rằng Tự học là học riêng một mình ? ... Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình học tập hoặc hợp tác với bạn nhóm học, không có sự giảng dạy một cách trực tiếp của giáo viên...tự bản thân tìm tòi, lao động bằng tri óc để nắm bắt, hiểu một vấn đề, một sự vật hiện tượng... Vậy, Tự học là quá trình tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh tri thức.[3] c. Khái niệm kỹ năng tự học Từ hai khái niệm trên, chúng ta thấy rằng kỹ năng tự học là khả năng làm chủ các hoạt động học tập của bản thân người học một cách đúng đắn khoa học để đạt hiệu quả mong đợi, như kỹ năng lập được kế hoạch tự học- thời gian địa điểm học hợp lý, kỹ năng đọc sách, nghe giảng, ghi chép bài... người học xác định được mục tiêu, mục đích, phương pháp học tập một cách hợp lý và đạt hiệu quả cao. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm a. Thuận lợi Hiện nay, cùng với sự phát triển chung của xã hội, người giáo viên cũng như học sinh có điều kiện tiếp thu nhiều nguồn thông tin truyền hình, báo chí, Internet, các tư liệu lịch sử phong phú, đa dạng và các phương tiện bổ trợ cho công tác dạy và học. Trong quá trình dạy học ở nhà trường phổ thông, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là phía nhà trường đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho người giáo viên hướng dẫn, truyền đạt kiến thức cho học sinh. Đa số học sinh, phụ huynh cũng thấy được tầm quan trọng của việc học tập để phục vụ cho tương lai, cho nên 1 số học sinh cũng có ý thức cao trong việc học tập và phụ huynh cũng lo lắng quan tâm đến việc học của con cái nhiều hơn. b. Khó khăn Cùng với những thuận lợi như đã nói ở trên, thì trong công tác giảng dạy tôi cũng nhận thấy được nhiều khó khăn,bất cập, đó là nguyên nhân dẫn đến chất lượng của bộ môn lịch sử ngày càng sa sút. Tuy nhiên, trong đề tài này tôi chỉ trình bày một cách ngắn gọn một số nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến tình trạng đó. Thứ nhất, trong nhận thức chung, chúng ta còn xem nhẹ môn học lịch sử, coi môn lịch sử là “môn phụ”- cho nên học sinh chưa thật sự ý thức trong việc học tập môn học này. Thứ hai, chương trình học và việc giảng dạy bộ môn Lịch sử còn nhiều vấn đề tồn tại chúng ta thấy rằng từ sau đổi mới chương trình và sách giáo khoa được áp dụng từ năm học 2006-2007 của Bộ Giáo dục và đào tạo thì “dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít... dẫn đến phương pháp giảng dạy của giáo viên còn ít chú ý đến rèn luyện phát triển khả năng tư duy độc lập của học sinh. Thứ ba, nhiều giáo viên bộ môn lịch chưa thật sự tâm huyết với nghề. Thứ tư, từ những nguyên nhân dẫn đến học sinh “chán” - không hứng thú với môn lịch sử, học lịch sử chỉ là để đối phó trong thi cử, nên đa số học sinh, học lịch sử theo phương pháp “thuộc lòng”, “máy móc”... và còn nhiều nguyên nhân khác nữa. Chính những vấn đề đó mà có những bài thi của học sinh “cười ra nước mắt”, những bài thi điểm 0... còn nhiều, đặc biệt trong kì thi THPT Quốc gia năm 2015 có cụm thi chỉ có một hoặc hai thí sinh dự thi môn Lịch sử. Chứng tỏ học sinh phần lớn chưa thực sự đam mê tìm hiểu môn Lịch sử. Ở trường THCS Quảng Long cũng không nằm ngoài thực trạng đó. Năm học 2016-2017 tôi thử nghiệm không áp dụng đề tài này trong giảng dạy thì tôi thấy học sinh chưa hứng thú trong học tập, khó nhớ nội dung các kiến thức, hoặc có những học sinh do chăm chỉ mà nhớ thì các em cũng không nhớ lâu. Kết quả thực nghiệm như sau Lớp Sĩ số Giái Kh¸ TB YÕu Km SL % Sl % SL % SL % SL % 7A 35 6 17,1 10 28,6 15 43,2 4 11,4 0 0 7B 36 1 2,8 9 25 20 55,6 6 16,6 0 0 c. Sự cần thiết phải phát triển kỹ năng tự học của học sinh trong nhà trường phổ thông. Trong xu thế phát triển của thời đại và công cuộc cải cách giáo dục của Bộ Giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục hiện nay xác định học sinh là trung tâm, là người chủ động tích cực và sáng tạo, người giáo viên chỉ đóng vai trò là người điều khiển hướng dẫn học sinh học tập. Cùng với những bất cập mà tôi đã trình bày ở phần thực trạng về chương trình trình học lịch sử hiện nay “dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít... Chính vì thế mà người giáo viên dạy học môn lịch sử không thể truyền đạt cho học sinh một lượng kiến thức “khổng lồ” được... mà chỉ có một trong hai cách -Một là, giáo viên đọc cho học sinh ghi chép toàn bộ kiến thức cho học sinh- theo chuẩn kiến thức kỹ năng của Bộ Giáo dục ban hành. -Hai là, giáo viên giữ vai trò là người hướng dẫn học sinh tự học-tự tìm hiểu là chính; chỉ giảng giải phân tích một số nội dung trọng tâm cần thiết. Tuy nhiên cách thứ nhất là đi ngược lại với xu thế phát triển của khoa học giáo dục hiện đại và hướng dẫn chỉ đạo của Bộ Giáo dục, vậy nên người giáo viên phải luôn xác định học sinh là trung tâm còn mình là người hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu chiếm lĩnh tri thức. Nhà giáo dục học Usinxki nói rằng “nhiệm vụ chủ yếu của thầy giáo không phải là truyền đạt kiến thức mà dạy cho học sinh biết suy nghĩ ”.[4] Như vậy, vấn đề tự học của học sinh là rất quan trọng vì đó là một khâu trong một quá trình thống nhất của việc dạy học, nhằm phát huy năng lực độc lập tư duy của các em trên lớp cũng như ở nhà. Điều này xuất phát từ nguyên lý giáo dục gắn nhà trường với đời sống. Với việc xác định học sinh là trung tâm, giáo viên là người điều khiển, hướng dẫn học sinh thì người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, đó là người giáo viên phải nắm vững kiến thức của toàn bộ chương trình và phải lập được kế hoạch giảng dạy khoa học mang tính bao quát và cụ thể- đặc biệt là giáo án trong từng tiết dạy... d. Một số lưu ý khi học sinh tự học Việc tự học của học sinh là rất quan trọng và đóng vai thành bại kết quả học tập của người học. Tuy nhiên, khi mới áp dụng cách học này học sinh còn gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ và nhiều khi cảm thấy không hiệu quả bằng cách học truyền thống . Cho nên, trong quá trình tự học, học sinh cần lưu ý một số vấn đề. - Trước hết, học sinh cần nắm rõ thế nào là tự học; tự học là một chu trình 3 giai đoạn Tự nghiên cứu, tìm tòi- Tự thể hiện- Tự kiểm tra và điều chỉnh. Chu trình này thực chất là con đường phát hiện vấn đề, định hướng cách giải quyết và giải quyết vấn đề học tập. - Thứ hai, học sinh cần xác định mục tiêu, nội dung học tập. Mục tiêu là cái đích chúng ta muốn đạt được, từ đó chúng ta mới xác định được nội dung cần học và xây dựng phương pháp học tập. Chỉ khi nào xác định được mục tiêu-mục đích thì học mới hiệu quả. - Thứ ba, học sinh cần xây dựng được kế hoạch học tập một cách khoa học rõ ràng và cố gắng thực hiện đúng kế hoạch. - Thứ tư, học sinh phải có phương pháp, cách học hiệu quả. Phương pháp đúng đắn là chìa khóa đi tới thành công trong học tập. giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Trong đề tài này tôi xin đưa ra một số biện pháp để rèn kĩ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử cho học sinh. a. Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt các ý bằng ngôn ngữ của mình. Khi học bài học sinh không nên học nguyên văn trong sách giáo khoa, hoặc nội dung bài học mà giáo viên truyền thụ ở lớp... Cách học như vậy mang tính “máy móc” còn gọi là học “thuộc lòng”, dẫn đến nặng nề, khó hiểu và khó nhớ. Để nhớ được kiến thức cơ bản, các em nên kết hợp sách giáo khoa, bài giảng của giáo viên, vở ghi... Trước hết, học sinh cần phải nhớ các phần, mục chính rồi sau tìm xem mỗi phần, mục ... gồm mấy ý chính rồi diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình để học. Học sinh chỉ cần nhớ “ý” chứ không cần thiết nhớ “văn” có nghĩa học sinh không nhất thiết phải diễn đạt nói và viết giống hệt như sách giáo khoa hoặc như lời giảng của thầy cô, miễn sao đúng là được. [5] Ví dụ 1 Bài 11 Lớp 7 Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống 1075-1077. Đây là bài học có nhiều mốc thời gian và sự kiện. Vì vậy sẽ rất khó khăn cho học sinh để nhớ và học bài học. Cho nên giáo viên chia học sinh thành các cặp đôi và yêu cầu các cặp lập bảng thống kê, chia thành 2 cột cột thời gian- cột sự kiện. Sau khi hiệu lệnh thời gian kết thúc cặp nào xong trước sẽ được trình bày GV chấm điểm và ưu tiên được công 1 điểm thưởng xong trước; còn lại các cặp khác đối chiếu với kết quả của bạn để chấm điểm cho cặp của mình. Ví dụ 2 Đối với các bài học về tình hình kinh tế các triều đại Bài 9 Nước Đại Cồ Việt thời Đinh Tiền Lê Tiết 2; bài 12 Đời sống kinh tế, văn hóa ; bài bài 13 Nước Đại Việt ở thế kỉ XIII Tiết 2 - Những bài này đều có đặc điểm chung là nêu tình hình kinh tế Nông nghiêp, thủ công nghiêp, thương nghiệp. - Để học tốt những bài học này học sinh chỉ cần nắm được các qui luật sau + Kinh tế nông nghiệp Biện pháp của nhà nước Thủy lợi, khai hoang.....; kết quả đạt được. + Thủ công nghiệp Thủ công nhà nước, thủ công truyền thống trong nhân dân. + Thương nghiệp Nội thương buôn bán trong nước, Ngoại thương buôn bán với nước ngoài. Trên cơ sơ các ý cơ bản đã chọn, học sinh tập diễn đạt theo ngôn ngữ của mình. Khi mới học theo phương pháp này học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn như trình bày dài dòng, vấp váp và có khi thiếu chính xác, có thể diễn đạt sai kiến thức... Tuy nhiên, khi đã tập học theo cách này nhiều, thuần thục trở thành kỹ năng thì rất dễ học, dễ nhớ và nhớ lâu. Khi học tập bằng phương pháp này học sinh cũng cần tự tổ chức các buổi học nhóm- chỉ cần hai học sinh truy bài cho nhau để kiểm tra nhau và tự điều chỉnh. b. Sơ đồ Trong phương pháp học Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt theo ngôn ngữ của mình, học sinh tìm ý cơ bản sau đó có thể sơ đồ hóa, công thức hóa ... đơn vị kiến thức cho ngắn gọn, đơn giản... tránh gây nhiễu giữa những đơn vị nội dung kiến thức gần giống nhau. Khi sử dụng học bài bằng phương pháp này người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, cần hướng dẫn cụ thể cho học sinh lập sơ đồ... Những nội dung phức tạp hoặc các giai đoạn lịch sử thì giáo viên có thể cung cấp sẵn cho học sinh rồi hướng dẫn học sinh tự nghiên cứu và phát biểu... Ví dụ Bài 12 Đời sống kinh tế văn hóa Tiết 2; Bài 15 Sự phát triển kinh tế và văn hóa nhà Trần Tiết 1; Nước Đại Việt thời Lê sơTiết 2 Khi dạy về các giai cấp, tầng lớp trong xã hội giáo viên có thể yêu cầu học sinh lập sơ đồ, sau đó phát triển các ý. Quý tộc NDCX Nô lệ Vua Quan sát sơ đồ học sinh kết hợp sách giáo khoa và lời giảng của giáo viên... học sinh có thể biết được xã hội phong kiến nước ta chia thành các giai cấp, tầng lớp nào Nông dân là tầng lớp đông đảo nhất và có vai trò to lớn; nhận đất canh tác và nộp tô thuế. Quý tộc vua, quan, địa chủ là tầng lớp bóc lột có nhiều của cải và quyền thế. Nô lệ Số lượng không nhiều, chủ yếu phục vụ, hầu hạ tầng lớp quý tộc. Bên cạnh việc lập sơ đồ, công thức chúng ta còn có thể lập dàn ý theo dạng cành cây, lập niên biểu, biểu đồ ....Có thể nói rằng, áp dụng phương pháp dạy học này giúp học sinh có thể độc lập tư duy và từng bước rèn luyện kỹ năng tự học ngày càng hiệu quả hơn. c. So sánh So sánh cũng là cách học hiệu quả để ghi nhớ kiến thức, trong lịch sử có những đơn vị nội dung kiến thức tương đồng hoặc tương phản... Học sinh có thể so sánh về đơn vị nội dung kiến thức, về sự kiện, số liệu, các nhân vật lịch sử, so sánh về thuật ngữ gần giống nhau nhưng nội dung hoàn toàn khác nhau... so sánh theo cặp phạm trù hoặc lập bảng... và điều đó giúp học sinh tránh tình trạng nhầm lẫn kiến thức trong quá trình học tập. Với cách học này, chúng ta đưa các nội dung kiến thức lại gần với nhau từ đó nhận rõ hai nội dung đơn vị kiến thức đó có điểm gì chung nhất và điểm khác biệt nào cần nhớ rõ, từ đó học sinh có thể học một mà biết được hai và đạt hiệu quả cao hơn. Ví dụ 1 Bài 5 Ấn Độ thời phong kiến, mục 2. Giáo viên chia học sinh theo nhóm Yêu cầu các nhóm lập bảng so sánh 3 vương triều khác nhau ở Ấn Độ thời kì phong kiến. Nội dung so sánh Vương triều Gup-ta Vương triều Đê-li Vương triều Mô-gôn Thời gian hình thành, kết thúc. Quốc gia lập nên Chính sách kinh tế Chính sách văn hóa Ví dụ 2 Bài 10 Nhà Lý đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước; bài Nước Đại Việt ở thế kỉ XIII. Sau khi học xong quân đội nhà Trần giáo viên cho học sinh so sánh quân đội thời Lí với quân đội thời Trần. Triều đại Giống nhau Khác nhau Quân đội Triều Lí Quân đội triều Trần Học lịch sử có rất nhiều sự kiện khó nhớ, nhưng chúng ta nếu biết vận dụng tìm những điểm chung tương đối và đưa ra so sánh thì một số sự kiện ghi nhớ rất đơn giản. Trong thực tế có rất nhiều đơn vị kiến thức nội dung có mà chúng ta có thể áp dụng đưa vào so sánh để học một cách hiệu quả cao. d. Kênh hình Tranh ảnh, lược đồ, bản đồ...... Kênh hình bao gồm bản đồ, lược đồ, tranh ảnh lịch sử, là những phương tiện dạy học rất đặc trưng của bộ môn Lịch sử, nó giúp cho học sinh tái hiện những sự kiện, nhân vật trong quá khứ. Theo xu hướng hiện nay là giảm bớt thuyết trình của giáo viên, tạo điều kiện để học sinh học tập tích cực nên chúng được sử dụng như là một nguồn cung cấp kiến thức giúp học sinh tự tìm tòi, phát hiện những kiến thức và rèn luyện kĩ năng bộ môn chứ không chỉ để minh hoạ cho lời giảng của giáo viên. Như vậy kênh hình là đối tượng để học sinh chủ động, tự lực khai thác kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Do đó việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng khai thác tốt kênh hình trong học tập bộ môn Lịch sử là một yêu cầu cấp thiết và mang tính quyết định đến sự thành công trong dạy - học của thầy và trò. [2] Qua khai thác kênh hình, GV cần chú ý rèn luyện cho học sinh những kĩ năng - Kĩ năng quan sát, nhận xét - Kĩ năng mô tả, tường thuật - Kĩ năng phân tích, nhận định đánh giá Để rèn luyện được các kĩ năng đó, trong việc tổ chức khai thác kênh hình, giáo viên tiến hành các bước sau Bước 1 Hướng dẫn học sinh tham gia một “chuyến du lịch” bằng cách giới thiệu sơ lược và hấp dẫn những hình ảnh trong sách giáo khoa Bước 2 Nêu mục đích làm việc với tranh ảnh Bước 3 Đưa ra những câu hỏi gợi ý để học sinh có cơ sở khai thác kiến thức từ tranh ảnh. Bước 4 Tổ chức cho học sinh trả lời câu, hỏi trên cơ sở các em tự phát hiện kiến thức mới. Bước 5 Cho HS nhận xét, bổ sung và GV đi đến kết luận. Hình ảnh này có chủ đề là gì? Tranh ảnh Em có liên hệ so sánh gì với quá khứ? Dự đoán gì trong tương lai? Em thu nhận được những thông tin gì qua hình ảnh đó? Em có cảm nhận và bày tỏ gì? Cụ thể Ví dụ Bài 15 Sự phát triển kinh tế văn hóa thời Trần - Học sinh quan sát hình 35 SGK [1], để khai thác hình này học sinh cần phải - Xác định chủ đề của hình 35,36 Sản phẩm thủ công trong nền kinh tế thủ công nghiệp thời Trần. - Cảm nhận từ hình 35 Đây là những sản phẩm thủ công hết sức tinh xảo, độc đáo, hoa văn sắc nét, tinh tế. - Bày tỏ thái độ Cảm phục tài năng những người thợ thủ công trong thời kì phong kiến nhà Trần con người lúc đó chưa có sự hỗ trợ của máy móc nhưng với bàn tay khéo léo, khối óc sáng tạo họ đã làm được những sản phẩm th Làm sao để học môn lịch sử dễ nhớ các sự kiện, các con số là vấn đề của nhiều bạn học sinh. Hãy tham khảo những mẹo nhỏ là kinh nghiệm của những bạn học sinh giỏi môn Sử dưới đây để học tập nhé!Hướng dẫn một số cách học Môn Sử dễ nhớ nhất1. Hãy học lịch Sử vào thời gian thoải mái nhấtThời gian học cũng rất quan trọng. Môn Sử là một môn khó nhớ, nên hãy học vào những lúc tâm trạng thoải mái nhất. Đặc biệt, không nên học vào lúc tâm trạng không thoải mái, căng thẳng vì khi đó càng học càng đau đầu mà cũng không nhớ biết tận dụng thời gian để học một cách tối đa. Nếu bạn đã học thuộc bài đó rồi, hôm sau hãy xem qua bài cũ rồi mới học bài mới. Bạn có thể đọc to lên để học thuộc nếu cần, hoặc không chỉ lẩm nhẩm trong đầu cũng được. Tất nhiên là hãy sử dụng cách học nào theo bạn là hứng thú và giúp bạn dễ thuộc bài Cần đơn giản hóa những con sốĐể học tốt môn sử phải nắm được kiến thức cơ bản và các ý chính trong bài giảng của giáo viên trên nhận chương trình môn sử có nặng nội dung với nhiều số liệu và thiếu hình ảnh, nhưng các em học sinh đều cho biết, nếu thực sự nắm được các vấn đề trong bài và biết cách học thì ôn sử không quá khó. Ngoài sách giáo khoa, tìm hiểu thêm các tài liệu tham khảo, nhất là các mẩu chuyện lịch sử. Theo Thúy, cách học này vừa giúp kiến thức lịch sử của em thêm phong phú, vừa khiến cho môn sử sinh động hơn, dễ nhớ nhớ các mốc sự kiện, những số liệu nên gắn với những điều quen thuộc trong cuộc sống như ngày sinh nhật của người thân, bạn bè, ngày lễ Tết…3. Học lịch sử nên vạch ý chính theo sơ đồCùng với việc nhớ được các số liệu chuẩn xác thì nắm được kiến thức lịch sử một cách hệ thống cũng là thách thức với rất nhiều học sinh. Học sử cũng có công thức, tìm ý chính, sau đó tìm ra các ý nhỏ hơn, ví dụ cụ thể, chẳng hạn như học về sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì phải hiểu các vấn đề liên quan như hoàn cảnh lịch sử, nguyên nhân để thành lập Đảng vào thời điểm đó mà không phải thời điểm khác, việc thành lập Đảng có vai trò, tác động gì đến các sự kiện tiếp theo…Học theo hệ thống luôn ghi nhớ các sự kiện, học theo các chủ đề xuyên suốt chiều dài lịch sử để so sánh giữa các thời kỳ. Để hiểu thêm về nội dung bài học, phát hiện và tìm cách giải quyết vấn đề, tự đặt câu hỏi và tìm ra câu trả lời để tạo được hứng thú khi học. Để nhớ sự kiện và mốc thời gian xảy ra sự kiện đó, nên lập bảng niên biểu ngắn gọn bao gồm một cột là mốc thời gian, một cột là tên sự kiện, làm như vậy các em sẽ ghi nhớ tốt một chiến dịch, cuộc khởi nghĩa nào các em nên học theo tiến trình chung. Mỗi bài học đọc kỹ một lần rồi làm sơ đồ tia. Ví dụ chiến tranh cục bộ sẽ bao gồm các nhánh chính là định nghĩa, âm mưu của địch, kế hoạch của ta, diễn biến, kết quả, ý nghĩa. Sau đó từ mỗi nhánh lại làm các tia nhỏ hơn. Việc học sơ đồ tia hiệu quả cao hơn rất nhiều so với việc học cả trang sách dài loằng ngoằng và một điều nữa là học bằng cách nhìn vào chính chữ mình bao giờ cũng dễ nhớ hơn là nhìn vào chữ mẹo nhỏ nữa là các em hãy gắn các tờ giấy ghi sự kiện lên chỗ nào mà mình hay nhìn thấy nhất tủ lạnh, cửa sổ, mặt bàn học để thường xuyên nhìn thấy nó, sẽ giúp ghi nhớ tự nhiên So sánh cách sự kiện với nhau để nhớ lâuHọc Lịch sử bằng cách so sánh các sự kiện với nhau cũng là cách để nhanh nhớ, nhớ lâu. Ví dụ khi học về giai đoạn lịch sử từ 1961- 1975, nên so sánh ba chiến lược chiến tranh theo tiến trình học tập chung học tập Lịch sử, không phải ai cũng có khả năng nhớ chi tiết các ngày tháng, con số. Do đó các em nên tập cho mình cách “nhớ tương đối”. Tức là trong sự kiện không nhất thiết phải nhớ ngày mà chỉ cần nhớ tháng, năm hoặc là vào nhớ năm và khoảng thời gian trong năm xảy ra sự kiện đó. Ví dụ cuối năm 1925, thu- đông năm 1947. Tuy nhiên những sự kiện lớn, quan trọng của tiến trình Lịch sử thì bắt buộc phải nhớ như các mốc thời gian mùng 2 tháng 9 năm 1945 hoặc 30 tháng 4 năm 1975…5. Phải biết xâu chuỗi các sự kiệnTuy nhiên các sự kiện đều có mối quan hệ xâu chuỗi với nhiều sự kiện khác. Nếu bạn tìm ra sự liên kết ấy, việc nhớ sẽ dễ hơn nhiều. Ví dụ từ sự kiện thành lập Đảng, trước đó là cả một sự chuẩn bị lâu dài, nó sẽ liên quan đến các sự kiện như ngày Bác ra đi tìm đường cứu nước, ngày thành lập Hội Việt Nam Cách Mạng thanh niên…Mỗi bài học đọc kỹ một lần rồi làm sơ đồ tia. Ví dụ chiến tranh cục bộ sẽ bao gồm các nhánh chính là định nghĩa, âm mưu của địch, kế hoạch của ta, diễn biến, kết quả, ý nghĩa. Sau đó từ mỗi nhánh lại làm các tia nhỏ ra, để dễ nhớ, các bạn nên lập bảng các sự kiện, trong đó có mốc thời gian, nội dung, kết quả, ý nghĩa cơ bản… Việc học sơ đồ tia hiệu quả cao hơn rất nhiều so với việc học cả trang sách dài loằng ngoằng và một điều nữa là học bằng cách nhìn vào chính chữ mình bao giờ cũng dễ nhớ hơn là nhìn vào chữ in. Và hãy nhớ là chỉ viết tóm tắt nội dung chính yếu nhất sau đó dán lên góc học tập hoặc những chỗ dễ thấy để lúc nào cũng có thể… liếc khi học, bạn ghi các mốc thời gian ra nhiều tờ giấy nhỏ khác nhau. Mỗi ngày bốc một tờ giấy ghi mốc thời gian rồi nêu sự kiện trong năm đó ra giấy hoặc đọc thuộc lòng, nếu chưa thuộc thì không nên học bài mới mà ôn lại ngay bài đó. Những mốc thời gian thường khó nhớ hơn là sự kiện vì dễ bị nhầm. Do đó bạn nên liên hệ đến những ngày tháng đặc biệt mà mình biết. Khi học đến sự kiện mới có ngày tháng hơi giống sự kiện cũ thì nên liên tưởng nhiên, không phải bất cứ mốc thời gian nào cũng phải nhớ, nên bỏ qua những sự kiện, chi tiết vụn vặt. Đừng tham quá nhiều chi tiết .Phần Lịch sử Việt NamChương trình thi là thời kỳ 1919 – 2000. Thời kì này sẽ được chia thành nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau và mỗi giai đoạn lịch sử sẽ có các sự kiện nổi bật. Chính vì vậy, các bạn nên học theo một cấu trúc chung cho tất cả các giai đoạn lịch sử như sau + Nội dung cơ bản của cách mạng Việt Nam là gì? + Nhiệm vụ cốt lõi của cách mạng Việt Nam ở giai đoạn này là gì? + Có những sự kiện tiêu biểu nào? Sự kiện nào tiêu biểu nhất ? Chiến thắng Điện Biên Phủ sự kiện nổi bật của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945-1954 Ví dụ Giai đoạn từ 1919 – 1930 Nội dung chính, nhiệm vụ chính của cách mạng Việt Nam cần phải giải quyết là quá trình đấu tranh để xác lập khuynh hướng cứu nước mới khi ngọn cờ phong kiến đã thất bại và khuynh hướng dân chủ tư sản đã lỗi thời. Kiến thức khởi đầu làm tiền đề cho nhiều vấn đề khác của giai đoạn này là chương trình khai thác thuộc địa lần thứ 2 của thực dân Pháp liên quan đến sự chuyển biến về kinh tế và sự phân hóa xã hội, phong trào yêu nước, phong trào công nhân, hoạt động cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái kiện kết thúc cho giai đoạn này là việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 2/1930 đánh dấu sự thắng thế hoàn toàn của khuynh hướng cứu nước vô sản và sự xác lập quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản, là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Tóm lại, vấn đề cốt lõi nhất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là quá trình chuẩn bị thành lập Đảng về tư tưởng chính trị và tổ chức. Phần lịch sử thế giớiCách học dễ nhớ nhất là ôn tập theo từng vấn đề trên cơ sở bài Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 đến 2000. Để tránh sự nhầm lẫn về kiến thức và sự kiện, bạn nên lập biểu những sự kiện chính theo từng vấn đề và sơ đồ hoá kiến thức theo từng nội dung chủ yếu sẽ hiệu quả Làm bài thi môn Lịch sử cần lưu ý+ Để làm tốt bài thi môn Lịch sử, trước hết phải chăm chỉ học tập, nắm thật vững kiến thức, và đừng học theo kiểu cầu may.+ Khi trình bày bài chữ viết cần viết rõ ràng nhiều bạn chữ rất xấu, thậm chí là sai lỗi chính tả rất nhiều, bài viết sạch đẹp. Hình thức tuy không quyết định nội dung, nhưng cũng là rất cần với những môn khoa học xã hội.+ Khi làm bài, trước khi viết phần trả lời cho từng câu hỏi, nên viết ra giấy nháp những ý chính, ý nhỏ cho từng câu hỏi để đảm bảo đủ ý.+ Nên lựa chọn những câu hỏi dễ làm trước, khó làm sau; câu hỏi có nội dung cụ thể trước, tổng hợp sau.+ Với những câu hỏi tổng hợp, cần lựa chọn những nội dung tiêu biểu, sự kiện tiêu biểu và có tính khái quát cao, tránh sa đà vào mô tả chi tiết.+ Với những câu lựa chọn những sự kiện tiêu biểu, nên lựa chọn những sự kiện lớn có ảnh hưởng đến chung cuộc không nên lựa chọn những sự kiện nhỏ không mang tính tiêu biểu.STOriginally posted 2021-05-10 053850. Tháng 8 năm 2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam công bố "Chương trình giáo dục phổ thông môn lịch sử". Trong chương trình này, Bộ Giáo dục xác định sẽ dạy cho học sinh các kỹ năng "tư duy lịch sử" historical thinking skills và "tư duy phản biện" critical thinking skills. Tư duy lịch sử được Chương trình khung nói trên giải thích là “nhận diện được các loại hình tư liệu lịch sử”, “hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập”, “tái hiện và trình bày được dưới hình thức nói hoặc viết về diễn trình của các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp.” Quan niệm coi việc giáo dục lịch sử là giáo dục kĩ năng “tư duy lịch sử” là một điều mới ở Việt Nam ngày nay; nhưng không mới ở các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới. Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đưa ra yêu cầu khá chi tiết đối với việc giáo dục “tư duy lịch sử” cho học sinh trong "Chương trình giáo dục phổ thông môn lịch sử" công bố tháng 8 năm 2022 có thể được coi là một bước tiến bộ hay không? RFA trao đổi với một số chuyên gia quốc tế về vấn đề này. Cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược năm 1979 được viết sơ sài trong Sách giáo khoa lớp 12. Ảnh Đại học Quốc gia Hà Nội Vì sao “tư duy lịch sử” lại quan trọng? Trong một bài viết bằng tiếng Anh gửi cho RFA để chia sẻ về những trải nghiệm cá nhân đối với việc học sử ở Hoa Kỳ thời kì trung học, Tiến sỹ Nu-Anh Tran, một Giáo sư sử học ở Đại học Connecticut, cho biết trong chương trình Tú tài Quốc tế International Baccalaureate - IB mà bà được học hồi nhỏ ở bang Washington, bà và bạn học đã được thực hành tranh luận với nhau về cách diễn giải quá khứ. Dưới đây là một trích đoạn trong bài được RFA dịch sang tiếng Việt. “Cuộc tranh luận về lịch sử đầu tiên mà tôi từng đọc thời trung học là một loạt bài viết về nguyên nhân của Cách mạng Nga, và các tác giả thực sự không đồng ý với nhau. Đọc những bài báo đó, tôi nhận ra rằng lịch sử không chỉ là về những sự thật và sự kiện về những gì đã xảy ra trong quá khứ, mà còn là cách chúng ta giải thích và diễn giải những sự kiện đó, cũng như tầm quan trọng của những sự thật đó. Các nhà sử học không phải là tác giả sách giáo khoa thông thạo mọi thứ, mà là những nhà tư tưởng tìm kiếm và vật lộn với bằng chứng, để đưa ra những lập luận cạnh tranh với nhau về cách hiểu quá khứ.” Giáo sư Olga Dror, một chuyên gia về lịch sử Việt Nam ở Đại học Texas A&M, giải thích với RFA vì sao trên thế giới người ta lại quan niệm về giáo dục lịch sử như vậy. Theo Giáo sư Olga, sử học không phải là một khoa học chính xác như các môn khoa học tự nhiên hay một số môn khoa học nghiên cứu về xã hội như kinh tế học, xã hội học. Đó là một môn học có tính “chủ quan”. Khi nhìn về quá khứ, chúng ta không có “quá khứ” mà chỉ có “tư liệu về quá khứ”. Chúng ta phải nghiên cứu các tư liệu này và diễn giải chúng để tạo ra nhận thức về lịch sử. Vì vậy, mỗi người với những tư liệu khác nhau, cách phân tích tư liệu khác nhau, sẽ cho ra những nhận thức khác nhau về quá khứ. Chính vì lí do này, bản thân việc “nghiên cứu tư liệu lịch sử” và “diễn giải tư liệu lịch sử”, tức là “kĩ năng tư duy lịch sử”, trở nên vô cùng quan trọng. Vẫn chưa đi ra khỏi vòng kim cô? Trao đổi với RFA, Giáo sư Vũ Tường, Trưởng khoa Chính trị học, Đại học Oregon, cho rằng chúng ta phải xem cách Bộ Giáo dục hay tác giả các bộ sách giáo khoa cụ thể hóa chương trình khung này thì mới đánh giá được. Giáo sư nói “Việc nhấn mạnh vào các kĩ năng tư duy này là rất tốt, là cái mới. Nếu họ thực sự làm được thì rất tốt. Nếu họ cho phép tư duy lịch sử, tư duy hệ thống, tư duy phản biện phát triển đúng theo cách hiểu khoa học của những khái niệm này thì rất là hay. Miễn là họ đừng bóp méo nó đi, kiểu như “tư duy phản biện” thì chỉ phê phán Mỹ chứ không được phê phán Việt Nam, hay “phản biện” thì chỉ phản biện những quan điểm lịch sử trái với Nhà nước thôi, chứ không phải là phản biện quan điểm Nhà nước.” Thành ra khái niệm mà Chương trình khung đưa ra thì hay, nhưng nội dung thực thế như thế nào, cách vận dụng ra sao, thì còn phải xem xét thêm. Đi vào chi tiết của Chương trình khung nói trên, Giáo sư Vũ Tường chỉ ra rằng, ở Mục số II, “Quan điểm xây dựng chương trình”, Chương trình Khung này đưa ra năm nội dung là “Khoa học, hiện đại”, “hệ thống, cơ bản”, “thực hành, thực tiễn”, “dân tộc, nhân văn”, “mở, liên thông”. Theo Giáo sư, nội dung đầu tiên của quan điểm “Khoa học, hiện đại”, là “quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam” thì hỏng rồi, vì một tổ chức chính trị dù lớn đến mấy cũng không hiển nhiên đại diện cho tính “khoa học, hiện đại”, mà ngược lại, tổ chức đó có nhiệm vụ phải cố gắng đạt được tính “khoa học, hiện đại”. “Mục tiêu hướng dẫn cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá lịch sử theo nguyên tắc “khoa học lịch sử”, qua đó phát triển “tư duy lịch sử”, “tư duy phản biện” chỉ nằm ở vị trí thứ 3. Vì nằm ở vị trí thứ yếu, nó phải được hiểu là phát triển tư duy lịch sử sao cho quán triệt quan điểm của Đảng. Ví dụ, hướng dẫn cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá lịch sử thì có thể hiểu là đi thăm quê hương cụ Trần Phú, viếng mộ mẹ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mục “thực hành, thực tiễn” nói đến một số kĩ thuật giáo dục mới, như thay vì học tại lớp thì học tại thực địa, như tại các bảo tàng, di sản. Nhưng ở Việt Nam, hệ thống các bảo tàng, di sản được được thiết kế cẩn thận thành một mạng lưới phục vụ nhu cầu chính trị của Đảng cầm quyền, trong khi đó nội dung thực tế của sự thật lịch sử cần khám phá thì rộng lớn hơn thế rất nhiều. Các nội dung về tính “dân tộc, nhân văn” thì tôi nghĩ sẽ không có gì mới so với cách dạy cũ, vì khái niệm “dân tộc, nhân văn” ở Việt Nam cũng được chính trị hóa, kiểu như yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội chẳng hạn.” Ở phần III, Mục tiêu Chương trình, chương trình khung này có đặt ra yêu cầu giúp học sinh “nhận diện các loại hình tư liệu lịch sử”. Giáo sư Vũ Tường cho rằng điều này rất hay, nhưng chúng ta phải xem tư liệu lịch sử nào là tư liệu học sinh trong thực tế được phép tiếp cận và phân tích, thảo luận cởi mở, tư liệu nào bị cấm, coi như không tồn tại. “Về mục tiêu dạy cho học sinh kĩ năng phân tích các quá trình lịch sử thì lâu nay lịch sử chính thống vẫn dùng cách “cưỡng ép lịch sử,” tức là loại trừ tư liệu này, nhấn mạnh tư liệu kia. Chúng ta phải xem cách nhà giáo dạy học sinh cách đánh giá tư liệu nữa. Trong mỗi giai đoạn, sự kiện, nhân vật, có tư liệu thứ yếu và tư liệu chủ yếu. Tất cả đều phải được xem xét chứ không phải loại trừ những tư liệu quan trọng, coi như chúng không tồn tại, trong khi đó lại nhấn mạnh những tư liệu thứ yếu. Nói chung có nhiều vấn đề phải xem xét ở đây.” Tư duy lịch sử đa chiều và đa nguyên Theo Giáo sư Vũ Tường, ở đây vấn đề cốt lõi không chỉ là giáo dục “tư duy lịch sử” cho học sinh mà là “tư duy lịch sử đa chiều và đa nguyên”. Ông giải thích, trong chính trị, đại khái, chủ nghĩa đa nguyên chủ trương là tất cả các bên, các thành phần chính trị xã hội khác nhau đều được tham gia vào quá trình thảo luận của Nhà nước để ra một quyết định nào đó. Không có nhóm nào bị loại bỏ, dù họ nhỏ bé đến mấy đi nữa. Người ra đặt ra yêu cầu như vậy vì thực tế chính trị xã hội rất đa dạng, chứ không ở đâu và khi nào lại có một lực lượng duy nhất là có ý nghĩa, còn các nhóm khác “đáng” bị loại bỏ cả. Các quá trình lịch sử trong quá khứ cũng tương tự như vậy. Có rất nhiều biến số, nhiều lực lượng, nhiều nhóm hiện diện trong mỗi giai đoạn lịch sử, với những động lực khác nhau. Trong quá khứ, họ có thể hợp tác hay va chạm với nhau tùy thời điểm, và những gì họ để lại đều là tư liệu lịch sử. Do đó thường thì có nhiều tư liệu lịch sử của nhiều bên khác nhau cùng liên quan đến một sự kiện lịch sử, một quá trình lịch sử. “Tư duy lịch sử đa chiều” là chúng ta khảo sát và phân tích tư liệu của tất cả các chiều, chứ không sử dụng một nguồn tư liệu duy nhất và loại bỏ các nguồn tư liệu đến từ các chiều nhìn, góc nhìn khác. Độc tôn một nguồn tư liệu thì chỉ tạo ra một bức tranh lịch sử phiến diện. “Tư duy lịch sử đa chiều và đa nguyên” do đó rất cần thiết để hiểu một quá trình lịch sử nào đó trong quá khứ một cách toàn diện và đúng đắn. Chính vì sự đa dạng này của đời sống chính trị xã hội, mỗi nhóm xã hội sẽ có một nguồn tư liệu lịch sử khác nhau, do đó nhìn lịch sử cũng khác nhau. Giáo sư Vũ Tường lấy ví dụ, cùng một sự kiện, một quá trình lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn lịch sử theo kiểu này, nhưng Việt Nam Quốc Dân Đảng nhìn lịch sử theo kiểu khác. Người Việt trong nước nhìn thế này, người Việt hải ngoại nhìn thế khác. Cùng là nhìn lại một cuộc chiến, nam giới có thể nhìn lịch sử kiểu này, phụ nữ có thể nhìn kiểu khác, những “anh hùng” của cuộc chiến đó có thể nhìn lại theo kiểu này, còn những người dân có số phận nhỏ bé, bình thường thì nhìn kiểu khác. Cái nhìn lịch sử đa chiều, đa nguyên là sử dụng, tham chiếu, khảo sát tất cả các góc nhìn đó cũng như những tư liệu lịch sử mà tất cả các bên lưu giữ. Trong Chương trình khung nói trên của Bộ Giáo dục, Giáo sư Vũ Tường chỉ ra là Bộ Giáo dục nói là sẽ dạy học sinh kĩ năng tái hiện các sự kiện, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp. Ta có thể lấy ví dụ như một vụ nổ bom sự kiện đơn giản, hay sự ra đời của một nhà nước hay cả cuộc chiến tranh Lạnh quá trình lịch sử phức tạp. Họ không nói đến tính đa chiều, đa nguyên của tư duy lịch sử. Thành ra những gì Chương trình khung nói là đúng, nhưng không đầy đủ. Cái thiếu sót là một tư duy lịch sử “đa chiều” chấp nhận sự đối thoại sử học dựa trên các tư liệu lịch sử “chính thống” hay “phi chính thống”. Tư liệu lịch sử chính thống là tư liệu cho các nhà nước sưu tập, lưu giữ, công bố. Nhà nước nào, thời nào, ở đâu cũng có những bộ tư liệu chính thống như vậy. Ví dụ thời phong kiến, “Đại Việt Sử kí Toàn thư” là tư liệu chính thống, còn “Lĩnh Nam chích quái” là phi chính thống. Còn đối với lịch sử thế kỉ 20 ở Việt Nam, ví dụ, các bộ Văn kiện Đảng là tư liệu chính thống, còn lời kể của những số phận nhỏ bé đã phải kinh qua chiến tranh là tư liệu phi chính thống. Quan điểm lịch sử hiện đại là chấp nhận những nguồn tư liệu phi chính thống, tư liệu của những người không thuộc tầng lớp tinh hoa, những người không có điều kiện và phương tiện để cất lên tiếng nói của họ. Tư duy lịch sử đa chiều không đánh giá về giá trị của tư liệu lịch sử bằng cách dựa vào “vị thế” chính thống hay phi chính thống của nó, vì “vị thế” này sẽ thay đổi theo thời đại chứ không tồn tại vĩnh viễn, mà là khảo sát tính xác thực của nó, giá trị của nó trong việc tìm hiểu quá khứ. Dựa trên những bằng chứng khác nhau mà mỗi bên đưa ra, và thừa nhận rằng quan điểm của mỗi bên, dựa trên tư liệu của mỗi bên, chỉ là một phần của bức tranh lịch sử và cần bổ sung cho nhau. Các bên khác nhau liên quan đến một quá trình lịch sử nào đó có những vị trí, thế đứng, tư liệu khác nhau. Những điều này cần bổ sung được cho nhau để có được cái nhìn đầy đủ về lịch sử. GS Vũ Tường lấy ví dụ thời Trần, có “Đại Việt Sử kí Toàn thư” của Việt Nam, có “Nguyên sử” của nhà Nguyên, có “An Nam chí lược” của Trần Ích Tắc… Mỗi nguồn tư liệu đều đến từ các lực lượng chính trị khác nhau, có góc nhìn khác nhau. Hoặc đối với chiến tranh Việt Nam thế kỉ 20, tư liệu lịch sử đến từ “Oral History”, tức là “Lịch sử nói”, ghi lại cuộc đời, số phận của những con người “nhỏ bé” sẽ cung cấp cho người nghiên cứu sử một phần khác của lịch sử, bổ sung cho bức tranh lịch sử của những nhân vật lịch sử “lớn”. Đối với chiến tranh Việt Nam, trước đây giới sử gia quốc tế hầu như chỉ quan tâm đến tư liệu từ phía Bắc Việt. Nhưng sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, người ta thoát khỏi sự chi phối của tinh thần chiến tranh Lạnh, người ta bắt đầu nghiên cứu về hệ thống tư liệu do phía Việt Nam Cộng Hòa để lại. Và từ những tư liệu này, một phần khác của bức tranh lịch sử, bao gồm lịch sử kinh tế, lịch sử chính trị, lịch sử văn hóa, giáo dục, báo chí, tinh thần… được tái hiện để soi chiếu với bức tranh trước đây, vốn chỉ tập trung vào lịch sử quân sự. Các góc nhìn khác nhau này sẽ giúp nhận thức lịch sử toàn diện hơn. Nhưng vấn đề là phải học các kĩ năng tư duy lịch sử để phân tích được các tư liệu đó, và học được tinh thần chấp nhận các tư liệu lịch sử phi chính thống, có thể đem đến những ánh sáng mới, khác với cách nhìn chính thống, thậm chí xung đột với cách nhìn chính thống. Do đó, Giáo sư Vũ Tường cho rằng “Ở bất kì thời nào, phía chính thống luôn có nhiều nguồn lực và phương tiện để xây dựng hệ thống tư liệu và quan điểm lịch sử chính thống một cách hệ thống. Phản biện hệ thống quan điểm này không dễ. Giáo dục tư duy lịch sử phải chấp nhận khả năng sinh viên hay học sinh tìm ra các tư liệu có khả năng đối thoại với hệ thống đó. Đó là những gì diễn ra trong lịch sử giáo dục hiện đại trên thế giới. Thậm chí ở các nền giáo dục tiên tiến ngày nay, người ta làm điều đó dễ hơn nữa vì thực ra họ không đặt ra một quan điểm chính thống về lịch sử.” Triết lý giảng dạy và phương pháp giảng dạy lịch sử như trên tác động rất lớn đến sự hứng thú học tập lịch sử của học sinh. Ở Việt Nam, nhiều năm nay, người ta lên tiếng báo động về việc học sinh không thích học sử. Giáo sư Olga Dror chia sẻ với RFA rằng việc học sinh sinh viên không thích theo đuổi môn sử là khá phổ biến trên thế giới, bởi một trong những lí do chủ yếu là môn sử khó giúp cho người học dễ dàng tìm kiếm việc làm trong tương lai như các ngành học khác. Nước Mỹ cũng không phải là ngoại lệ, trừ ngành sử ở những trường đại học thuộc nhóm “tinh hoa”. Nhưng ở Mỹ, theo GS. Olga, học sinh sinh viên được huấn luyện kĩ năng tư duy lịch sử để phát triển tính sáng tạo. Điều này giúp cho việc học sử của họ trở nên thú vị. Theo Giáo sư Olga Dror, điều quan trọng nhất của việc giáo dục kĩ năng tư duy lịch sử cho học sinh, sinh viên là xây dựng khả năng sáng tạo của họ. Quá trình nghiên cứu và diễn giải tư liệu lịch sử, theo bà, giống như là một phương trình của sự sáng tạo. Khảo sát về "Chương trình giáo dục phổ thông môn lịch sử" của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, bà nhận thấy nó chưa thực sự hướng đến mục tiêu ấy. Vốn sinh ra và lớn lên ở Liên Xô và sau đó du học Israel và Hoa Kỳ, GS Olga nhận xét rằng học sinh, sinh viên Hoa Kỳ “đang làm tốt hơn bởi vì họ được học cách diễn giải tư liệu lịch sử. Lịch sử thực sự là một công cụ tuyệt vời để thực hành kĩ năng xử lý, phân tích, giải thích và phát triển dữ liệu lịch sử.”

hướng dẫn học sinh tự học môn lịch sử